NHỮNG BƯỚC TIẾN DÀI CỦA NGÀNH THÉP VIỆT

Những năm 2000, ngành thép Việt Nam còn rất non trẻ, công nghệ lạc hậu, nhỏ lẻ, phân tán nhưng đến nay đã có bước tiến rất dài cả về quy mô, sản lượng và công nghệ.

Trải qua thời gian, có thể nói rằng, ngành thép Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về công suất sản xuất cũng như chủng loại sản phẩm. Những năm 2000, tổng công suất phôi toàn ngành chỉ đạt khoảng 300 nghìn tấn, sản xuất thép thành phẩm chỉ đạt 2,4 triệu tấn, nhưng đến năm 2015, công suất phôi đạt hơn 12 triệu tấn, tăng hơn 40 lần so với năm 2000; thép thành phẩm các loại đạt hơn 26 triệu tấn, tăng hơn 10 lần.

Vào thời kỳ này, ngành thép Việt Nam như được thay da đổi thịt, xuất hiện nhiều dự án đầu tư theo chiều sâu, liên doanh với đối tác nước ngoài và thu hút sự quan tâm từ các ngành trọng điểm khác của nền kinh tế như: cơ khí, xây dựng, quốc phòng,… Theo đó, khi nhu cầu về thép tăng cao, các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư theo chiều sâu các dự án nhằm đáp ứng cao nhất cho sự phát triển kinh tế đất nước.

Những năm gần đây, tăng trưởng ngành thép Việt Nam đều ở mức hai con số với tổng sản phẩm đã đạt khoảng 30 triệu tấn vào năm 2021. Sản lượng phôi thép cũng liên tục tăng từ 4,3 triệu tấn vào năm 2010 lên khoảng 22 triệu tấn vào năm 2021.

Bên cạnh sản lượng, sự đa dạng trong chủng loại sản phẩm cũng giúp ngành thép Việt Nam bổ sung đủ loại sản phẩm mà hiện nay vẫn đang còn thiếu. Các doanh nghiệp sản xuất thép Việt Nam rất “chịu chi” khi liên tiếp đầu tư hàng nghìn tỷ đồng để xây dựng và phát triển sản phẩm thép có chất lượng, không chỉ trong nước và thế giới ưa chuộng mà còn giúp Việt Nam tự chủ hơn trong các sản phẩm thép, thay thế hàng nhập khẩu.

Một số dự án sản xuất thép có quy mô lớn, thiết bị hiện đại đã được hình thành và đưa vào hoạt động. Nhờ đó, khoảng hơn 10 năm trở lại đây, ngành thép Việt Nam được đánh giá có tốc độ phát triển rất mạnh trong khu vực, đến nay đã vươn lên đứng thứ 14 thế giới. Đây là bước tiến rất lớn đối với thép Việt Nam trên bản đồ ngành công nghiệp thép thế giới.

Ông Đào Phan Long, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam (VAMI) nhận định, những năm 2000, ngành thép Việt Nam còn rất non trẻ, công nghệ lạc hậu, nhỏ lẻ, phân tán nhưng đến nay đã có bước tiến rất dài cả về quy mô, sản lượng và công nghệ tương đương tầm cỡ thế giới.

Các doanh nghiệp đã tự chủ sản xuất được thép cuộn cán nóng, thép chuyên dụng chất lượng cao, thép rút dây, thép lõi que hàn, thép dự ứng lực,… thay thế hàng nhập khẩu. Điều này cho thấy, tính ưu việt của công nghệ, hệ thống dây chuyền thiết bị của doanh nghiệp thép trong nước, giúp tối ưu hóa giá trị gia tăng cho doanh nghiệp.

Bên cạnh những lợi thế, hiện nay, ngành thép vẫn đang đối diện rất nhiều thách thức như vấn đề thừa cung, phòng vệ thương mại gia tăng, áp lực về biến động giá nguyên liệu, các chính sách về thuế, sức cạnh tranh,… đòi hỏi ngành thép Việt Nam, cũng như các cơ quan quản lý nhà nước cần có biện pháp chấn chỉnh mạnh mẽ hơn nhằm giải quyết những bài toán khó của ngành, đưa ngành thép phát triển hiệu quả và bền vững hơn.

Đáng chú ý, việc tăng chất lượng thép Việt Nam tiệm cận với thế giới đang giúp ngành thép phát triển bền vững trong tương lai trước biến động khó lường của thị trường. Để làm được điều này, doanh nghiệp phải đầu tư thiết bị máy móc hiện đại hóa cao, đa dạng hóa sản phẩm, đi sâu vào sản phẩm chất lượng, công nghệ cao, tiết giảm tiêu thụ năng lượng để tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Khi đã chuẩn hóa được nguyên liệu đầu vào, công nghệ thì chắc chắn sản phẩm sẽ tốt hơn, đáp ứng yêu cầu khắt khe của các thị trường “khó tính” trên thế giới.

Nguồn tin: Sathep.net