Tiêu thụ trong nước lao dốc, xuất khẩu khó khăn, trong khi sản phẩm nhập khẩu ùn ùn khiến các doanh nghiệp thép VN càng lao đao.
Trung Quốc chiếm hơn 50% lượng thép nhập khẩu vào VN
Số liệu từ Hiệp hội Thép VN (VSA) cho thấy sản xuất thành phẩm của các doanh nghiệp (DN) thành viên trong 5 tháng đầu năm nay đạt 11,091 triệu tấn, giảm 21,8% so với cùng kỳ năm 2022; bán hàng thép thành phẩm đạt 10,4 triệu tấn, giảm 19,3% so với cùng kỳ năm 2022. Ở chiều ngược lại, nhập khẩu thép thành phẩm các loại về VN từ tháng 1 – 4.2023 khoảng 3,769 triệu tấn với trị giá hơn 3,162 tỉ USD, giảm 5,15% về lượng và giảm 24,36% về giá trị.
Sản xuất thép trong nước lao đao khi nhu cầu tiêu thụ giảm mạnh và hàng nhập khẩu vẫn không giảm
Đáng nói, sắt thép từ Trung Quốc luôn chiếm hơn 50% tổng lượng hàng nhập vào VN. Năm 2022, số liệu từ Tập đoàn SUMEC (Trung Quốc) cho biết VN là thị trường lớn thứ 2 mua thép các loại của Trung Quốc với hơn 5,46 triệu tấn, chiếm 10% tổng lượng thép xuất khẩu của nước này. Lượng sắt thép mua từ Trung Quốc chiếm 46% tổng sản phẩm nước ngoài nhập vào VN trong năm qua. Trong đó, thép cuộn cán nóng (HRC) là sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Trung Quốc sang VN. Theo ước tính của Bộ Tài chính, VN đang nhập khẩu hơn 8 triệu tấn cuộn cán nóng mỗi năm, 40% trong số đó là nhập từ Trung Quốc.
Một số DN sản xuất trong nước cho hay hiện thép HRC nhập khẩu vào VN với thuế suất 0%. Đặc biệt, nhiều sản phẩm thép từ Trung Quốc nhập vào VN cũng đang được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt 0% theo Hiệp định ACFTA mà VN và Trung Quốc đều tham gia. Đó là lý do thép Trung Quốc đang ồ ạt “chảy” vào VN, khiến các DN ngành này lao đao, thua lỗ.
Công ty CP Gang thép Thái Nguyên – Tisco báo cáo doanh thu thuần quý 1/2023 giảm 34% so với cùng kỳ năm trước, đạt 2.445 tỉ đồng và do nhiều chi phí tăng khiến công ty lỗ hơn 19 tỉ đồng trong quý đầu năm nay, đánh dấu 3 quý lỗ liên tiếp. Phía Tisco cho biết, nguyên nhân là bởi những tháng đầu năm nay, thị trường tiêu thụ thép gặp nhiều khó khăn, sản lượng và giá bán giảm trong khi giá nguyên liệu đầu vào cao.
Tương tự, Công ty CP Thép Nam Kim tiếp tục nối dài chuỗi 3 quý lỗ liên tiếp trong quý đầu năm nay. Cụ thể, công ty có doanh thu hơn 4.374 tỉ đồng, giảm 38,8% so với cùng kỳ năm trước và bị lỗ 49,4 tỉ đồng trong khi cùng kỳ năm trước lãi hơn 590,7 tỉ đồng. Dù vậy, số lỗ quý 1/2023 đã thấp hơn so với khoản lỗ 419 tỉ đồng và 356 tỉ đồng của hai quý cuối năm 2022. Cùng cảnh ngộ, Công ty CP thép Pomina ghi nhận lỗ sau thuế gần 187 tỉ đồng trong quý 1/2023, thấp hơn nhiều so với số lỗ 461 tỉ đồng của quý 4/2022 và 716 tỉ đồng của quý 3/2022…
Ngay cả “anh cả” ngành thép như Hòa Phát lợi nhuận cũng giảm trầm trọng, chỉ lãi 383 tỉ ađồng, giảm hơn 95% so với cùng kỳ năm trước; Tổng công ty Thép VN có lãi gần 68 tỉ đồng, giảm 65% so với cùng kỳ năm trước; Tập đoàn Thép Tiến Lên có lãi 6,3 tỉ đồng, giảm 93% so với cùng kỳ năm trước…
Phải bảo vệ ngành sản xuất trong nước
Tập đoàn SUMEC dự báo nhu cầu tiêu thụ thép trong nước của Trung Quốc năm nay vẫn yếu dẫn đến xuất khẩu có xu hướng tăng. Quý 1/2023, lượng tồn kho phôi thép Đường Sơn đạt mức cao kỷ lục. Trong khi các nhà máy sản xuất có xu hướng tiếp tục sản xuất và có thể bán dưới giá thành để có tiền mặt (do khó khăn về tài chính) thì phôi thép đang được xuất khẩu trở lại trong năm nay… Việc tăng cường xuất khẩu của Trung Quốc sẽ gây sức ép với thị trường VN ngay sát bên, đặc biệt trong bối cảnh thị trường bất động sản, xây dựng vẫn trầm lắng khiến nhu cầu tiêu thụ lao dốc và hàng loạt DN lao đao.
Là ngành công nghiệp nặng cơ sở của mỗi quốc gia nên đa số các nước thành công về phát triển kinh tế đều xác định thép là ngành kinh tế mũi nhọn, hàng đầu và tập trung đầu tư phát triển. Trung Quốc đã áp dụng các chính sách khuyến khích phát triển như miễn giảm thuế, hoàn thuế đối với thép hợp kim, thép cây, thép cuộn, thép tấm cuộn cán nóng… để đẩy mạnh xuất khẩu. Ngược lại nước này áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các sản phẩm thép từ những nước muốn xuất khẩu vào Trung Quốc. Từ đó, ngành thép Trung Quốc phát triển mạnh và hiện đang dẫn đầu về sản lượng trên thế giới. Mỹ, Hàn Quốc và hàng loạt nước thuộc châu Âu đã tăng cường các biện pháp phòng vệ thương mại đối với các sản phẩm thép nhập khẩu để bảo vệ sản xuất trong nước.
Tại VN, công suất sản xuất của ngành thép đang xoay quanh mức 29 – 30 triệu tấn/năm, vượt xa nhu cầu sử dụng trong nước. Chỉ có một số rất ít các sản phẩm đặc biệt chưa sản xuất hoặc sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu, còn lại đại đa số sản phẩm từ thép xây dựng, thép cuộn cán nóng, cán nguội, tôn mạ… các DN trong nước đã đáp ứng hoàn toàn và thậm chí đang xuất khẩu sang nhiều thị trường có tiêu chuẩn khắt khe như Mỹ, châu Âu, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Đáng chú ý, để xuất khẩu sang các nước, DN phải đáp ứng được giấy chứng nhận sản phẩm theo tiêu chuẩn của riêng từng nước khá khắt khe. Trong khi đó, chúng ta vẫn chấp nhận tiêu chuẩn cơ sở, tức tiêu chuẩn do DN tự soạn và công bố. Điều này khiến nhiều sản phẩm nhập khẩu vào thị trường nội địa dễ dàng, thoải mái.
Nước này đã mạnh tay sử dụng nhiều biện pháp phòng vệ thương mại, nhất là áp thuế rất lớn để bảo vệ sản xuất trong nước dù từ trước đến nay vẫn nhập khẩu các sản phẩm thép rất nhiều. Song song đó, tiêu chuẩn kỹ thuật của họ đã được công bố rất sớm, đầy đủ. Để sản phẩm thép xuất khẩu được sang thị trường này không phải dễ và chỉ có những DN lớn, đảm bảo chất lượng mới làm được. VN cũng phải mạnh tay hơn nữa, nhất là cần xem xét, bổ sung các tiêu chuẩn chung của thế giới, đảm bảo sản phẩm nhập khẩu vào thị trường trong nước đầy đủ chất lượng để bảo vệ cả DN lẫn người tiêu dùng.
Nhập dễ, xuất khó, doanh nghiệp lao đao
Trong khi thép ngoại nói riêng và thép Trung Quốc nói chung ồ ạt nhập vào VN với thuế suất 0% thì thép VN xuất khẩu sang nhiều nước phải chịu thuế rất cao. Ví dụ, thép HRC của các nhà sản xuất VN bán vào thị trường Thái Lan chịu thuế hơn 42%. Hay như thép cán nguội từ VN (sử dụng nguyên liệu thép cán nóng nhập khẩu từ lãnh thổ Đài Loan và Hàn Quốc) khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ bị áp thuế lên hơn 450% nhưng cũng sản phẩm này từ Trung Quốc vào VN chỉ phải chịu thuế chống bán phá giá dao động trong khoảng 4,43 – 25,22%; thép cuộn và thép dây nhập khẩu vào VN chỉ chịu thuế chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại là 6,3%…
Nguồn tin: Thanh niên